Đề thi học sinh giỏi môn Lịch Sử tp Hà Nội 2018
Đề thi học sinh giỏi môn Lịch Sử tp Hà Nội 2018
Câu 1: (3,5 điểm)Tại sao nói toàn cầu hóa là xu thế khách quan, một thực tế không thể đảo ngược? Phân tích thời cơ và thách thức mà xu thế toàn cầu hóa đặt ra cho các quốc gia trên thế giới?
– Toàn cầu hóa là xu thế khách quan, một thực tế không thể đảo ngược bởi vì:
Về bản chất:
+ Toàn cầu hóa chính là hệ quả từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ xuất hiện từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (nửa sau thế kỷ XX). Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện trong những năm 80 của thế kỷ XX.
+ Là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau giữa tất cả các quốc gia, các khu vực và các dân tộc trên thế giới
Về biểu hiện, có thể nhận thấy xu thế toàn cầu hóa tác động đến toàn thế giới qua các đặc điểm sau đây:
+ Sự phát triển nhanh chóng của thương mai quốc tế;
+ Sự phát triển và tác động to lớn, ảnh hưởng to lớn của các công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia
+ Sự sáp nhập của các công ty thành những tập đoàn lớn, nhất là những công ty khoa học kỹ thuật nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước
+ Sự ra đời của các tổ chức liên kết kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế và khu vực (IMF, WB, WTO, EU, ASEAN, APEC, ASEM,…). Các tổ chức này có vai trò ngày càng quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế chung của quốc tế và khu vực.
Từ bản chất và những biểu hiện của xu thế toàn cầu hóa, có thể thấy:
+ Chính nhờ có cách mạng khoa học công nghệ mà nền sản xuất ở các cường quốc tư bản (Mỹ, Nhật Bản, các nước Tây Âu) tăng lên rất mạnh mẽ, đạt năng suất và khối lượng sản phẩm rất lớn (do máy móc hiện đại ra đời, sự hỗ trợ từ các tiến bộ khoa học,…). Trong đó, đặc điểm quan trọng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ là khoa học đóng vai trò tham gia trực tiếp vào sản xuất, mở đường cho sản xuất phát triển…
+ Từ sự phát triển này, đưa đến một hệ quả là thương mại quốc tế phát triển nhanh và mạnh (bởi sản xuất ra hàng hóa nhiều thì phải xuất khẩu, trao đổi giữa các nước);
+ Cuộc cách mạng khoa học công nghệ có nguồn gốc từ các nước tư bản chủ nghĩa, xuất phát từ chính nhu cầu sản xuất ở các nước này mà ra đời… Khi khoa học giúp cho sản xuất phát triển, sản phẩm hàng hóa tăng lên rất nhiều thì tất yếu dẫn đến việc tích tụ, tập trung sản xuất hàng hóa quy mô lớn dẫn đến sự ra đời của các công ty, tập đoàn lớn; các công ty nhỏ ngày càng không thể cạnh tranh nên dần sáp nhập thành các công ty, tập đoàn lớn. Đây chính là quá trình chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.
+ Từ đó, dẫn đến xu thế tiếp theo là sự ra đời của các tổ chức kinh tế, tài chính và quốc tế và khu vực;
+ Từ quá trình tham gia vào thương mại quốc tế, tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế… các quốc gia, khu vực trên thế giới ngày càng phụ thuộc vào nhau, tác động ảnh hưởng lẫn nhau;
Như vậy, có thể thấy rõ toàn cầu hóa là xu thế khách quan, một thực tế không thể đảo ngược, mang đến nhiều thời cơ, vận hội cho các quốc gia những cũng đặt ra không ít các vấn đề khó khăn, thách thức.
– Thời cơ và thách thức mà xu thế toàn cầu hóa đặt ra cho các quốc gia trên thế giới:
+ Thời cơ:
Xu thế toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần hơn, giúp củng cố hòa bình, giảm thiểu và đẩy lùi nguy cơ chiến tranh; tăng cường hợp tác, phát triển…
Toàn cầu hóa thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, đem lại sự tăng trưởng cao; các quốc gia đang phát triển có thể tận dụng cơ hội từ bên ngoài về nguồn vốn, khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm,… để phát triển đất nước, “đi tắt đón đầu” có thể rút ngắn thời gian…
+ Thách thức:
Các nước đang phát triển có xuất phát điểm thấp về kinh tế, cơ sở hạ tầng, quy mô nền kinh tế nhỏ, sức cạnh tranh yếu, tư duy chậm thay đổi…
Từ đó tạo ra sức ép cho các nước trong cạnh tranh trên trường quốc tế, bởi môi trường quốc tế còn nhiều mặt bất bình đẳng…
Thách thức về sử dụng hiệu quả nguồn vốn vai, giữ gìn bản sắc văn hóa…Do đó, đòi hỏi các nước phải có sự đổi mới, tìm kiếm cho mình con đường, mô hình phát triển phù hợp… Bởi nếu không tận dụng được thời cơ thì sẽ bị tụt hậu xa hơn.
Câu 2: (2,5 điểm)Cho biết xu thế phát triển của thế giới sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt? Từ sau sự kiện này, các quốc gia trên thế giới đã điều chỉnh chiến lược phát triển như thế nào? Tại sao có sự điều chỉnh như vậy?
– Xu thế phát triển của thế giới sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt:
Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt (từ năm 1989), thế giới đã chứng kiến những xu thế phát triển mới, cụ thể có những xu thế chủ đạo sau:
+ Các quốc gia có sự điều chỉnh trong chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế, lấy kinh tế làm trọng tâm (trung tâm);
+ Các nước lớn có sự thay đổi trong quan hệ với nhau, theo hướng đối thoại, hợp tác, tránh đối đầu, xung đột;
+ Hòa bình trở thành xu thế chủ đạo của thế giới, tuy nhiên nhiều khu vực vẫn còn nội chiến, xung đột, li khai, khủng bố,… đe dọa đến sự phát triển của các nước và an ninh thế giới…
+ Từ sau Chiến tranh lạnh, thế giới chứng kiến sự tác động mạnh mẽ của xu thế “toàn cầu hóa”,…
– Từ sau sự kiện Chiến tranh lạnh chấm dứt, các quốc gia trên thế giới đã điều chỉnh chiến lược phát triển, cụ thể:
Về kinh tế, các quốc gia có sự điều chỉnh trong chiến lược phát triển, tập trung vào phát triển kinh tế, lấy kinh tế làm trọng tâm (trung tâm); Về đối ngoại, thay đổi theo hướng đối thoại, hợp tác, tránh đối đầu, xung đột…
Có sự điều chỉnh như vậy là bởi vì:
+ Các nước ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng của kinh tế đối với đất nước, kinh tế đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong sức mạnh tổng hợp của quốc gia;
+ Căng thẳng, đối đầu… có thể dẫn đến chiến tranh thế giới, sẽ làm hao tốn nguồn lực, làm suy yếu đất nước (những gì diễn ra trong 4 thập kỷ của Chiến tranh lạnh thì có thể thấy rõ);
+ Cùng trong xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh, các nước vấp phải những vấn đề nan giải, có tính toàn cầu (ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, khủng bố,…) không một quốc gia đơn lẻ nào có thể giải quyết tốt. Cho nên, các quốc gia từ các cường quốc cho đến các nước đang phát triển có xu hướng tập trung cho phát triển kinh tế, tăng cường đối thoại, hợp tác với nhau…
Câu 3: (3,0 điểm)Giải thích tại sao Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên lại có thể phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam những năm 1925 – 1930? Đánh giá vai trò của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam những năm 1925 – 1930 là bởi vì:
+ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập vào tháng 6/1925. Từ khi thành lập, Hội đã có sự phát triển mạnh và chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc dân chủ Việt Nam trong những năm 1925 – 1930;
+ Đó là vì Hội đã nêu cao chủ trương: “…liên hiệp với vô sản giai cấp thế giới để một mặt đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, chế độ phong kiến và chủ nghĩa tư bản…”. Về bản chất, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một tổ chức cách mạng mang màu sắc vô sản, hoạt động chống lại sự đô hộ của thực dân Pháp…
+ Về thành phần, Hội kết nạp những thanh niên ưu tú, có cảm tình với cách mạng, giác ngộ cách mạng, có trình độ lý luận…
+ Hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, cao nhất là Tổng Bộ, kế tiếp là Kỳ Bộ, Tỉnh Bộ… hoạt động dựa trên sự theo dõi, chỉ đạo từ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc; Hệ thống cơ sở phát triển rộng khắp cả nước, số lượng Hội viên ngày càng đông (năm 1928 là 300, năm sau tăng lên 1700), nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các tầng lớp nhân dân…
+ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có nhiều hoạt động sôi nổi, có hiệu quả, tiêu biểu như: mở lớp đào tạo cán bộ (trong 2 năm 1925 – 1927, huấn luyện được 75 hội viên), cử hội viên ưu tú đi học tại Liên Xô, Trung Quốc, xuất bản cuốn “Đường Kách mệnh” năm 1927, đặc biệt là phong trào “Vô sản hóa năm 1928 v.v…
+ Chính vì thế, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên có được niềm tin từ quần chúng, được quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân, nhân dân lao động đồng tình, hưởng ứng…
+ Chính những yếu tố đó giúp cho Hội phát triển mạnh, và từ sự phát triển này đã giúp Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chiếm một thế đứng quan trọng trong lòng cách mạng từ khi thành lập (1925) cho đến khi phân hóa, phát triển thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Vai trò của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đối với sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam:
+ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam; Hội đã có vai trò to lớn trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng;
+ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thúc đẩy thời cơ thành lập Đảng sớm chín muồi:
Thông qua rất nhiều hoạt động sôi nổi, hiệu quả, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tuyên truyền lý luận về giải phóng dân theo con đường cách mạng vô sản, quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc,… đã nâng cao ý thức chính trị và sự giác ngộ cách mạng cho giai cấp công nhân và nhân dân yêu nước Việt Nam; thúc đẩy phong trào công nhân ngày càng phát triển, chuyển dần sang “tự giác”, dẫn tới sự ra đời của 3 tổ chức cộng sản trong năm 1929. Ba tổ chức này sau đó đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam…
+ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã chuẩn bị mọi mặt về tổ chức, lực lượng để thành lập Đảng:
Bên cạnh 3 tổ chức cộng sản ra đời và sau đó phân hóa, rồi hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã đóng vai trò tích cực trong việc đào tạo cán bộ (cử thanh niên ưu tú đi học ở Liên Xô, Trung Quốc) để tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng; là nơi hình thành lớp thế hệ cán bộ tuyên phong của Đảng, đóng vai trò hạt nhân dẫn dắt các hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũng như của Đảng sau này…
Câu 4: (3,5 điểm)Tại sao nói: Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám là thời cơ ngàn năm có một? Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân chop thời cơ, giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 như thế nào?
– Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám là thời cơ ngàn năm có một là bởi vì:
Đây là thời điểm hội tụ đầy đủ nhất những điều kiện thuận lợi cả về chủ quan và khách quan để nhân dân ta nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Thời cơ trên chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (khoảng 15 ngày), từ ngày phát xít Nhật đầu hàng cho đến trước ngày quân đội các nước Đồng minh vào nước ta (6/9/1945 theo quy định của Hội nghị Pốt đam);
Nếu nổi dậy tổng khởi nghĩa khi quân Nhật chưa đầu hàng thì nhân dân ta phải đổ nhiều máu do phát xít Nhật còn mạnh, hơn nữa chưa chắc đã thành công; trong khi Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trương hạn chế đổ máu đến mức thấp nhất.
Còn nếu như nhân dân ta nổi dậy tổng khởi nghĩa sau khi quân Đồng minh đã vào nước ta thì nhân dân ta phải đối mặt với nhiều kẻ thù. Khi đó, thành quả cách mạng sẽ rơi vào tay quân Đồng minh, dân nhân ta phải tiếp tục chịu kiếp nô lệ.
Vì vậy, muốn giành lại độc lập phải nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong khoảng 15 ngày ngắn ngủi nói trên.
– Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân chóp thời cơ, giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945:
Chính vì nhận thức rõ thời cơ trong Cách mạng tháng Tám là thời cơ ngàn năm có một, nên Đảng Cộng sản Đông Dương, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã lãnh đạo toàn dân chóp thời cơ, giành chính quyền thắng lợi, thể hiện qua những sự kiện tiêu biểu sau:
+ Thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và việc ra Quân lệnh số một của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc:
Ngày 15/8/1945, phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng không điều kiện quân Đồng minh, mở ra thời cơ ngàn năm có một cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta.
Nhưng không đợi đến khi quân Nhật đầu hàng, trước đó khi nhận thấy khả năng quân Nhật sẽ thất bại và đầu hàng Đồng minh, Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh đã quyết định thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc vào ngày 13/8/1945.
23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc đã ra Quân lệnh số 1, chính thức phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước.
+ Hội nghị toàn quốc của Đảng (14 – 15/8/1945):
Thông qua các kế hoạch lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa, đề ra chính sách đối nội, đối ngoại của đất nước khi giành được chính quyền.
Đây là một Hội nghị lịch sử, góp phần to lớn làm nên thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa.
+ Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập (16 – 17/8/1945):
Tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Với ý nghĩa và tầm vóc vô cùng to lớn, Đại hội quốc dân được xem là Hội nghị Diên Hồng của thế kỷ XX.
Câu 5: (2,5 điểm)Chứng minh rằng: Sau chiến thắng Biên giới thu – đông 1950, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp của nhân dân ta có bước phát triển mới.
Lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, ta chủ động mở một chiến dịch tiến công lớn nhằm vào tuyến phòng thủ mạnh của địch.
Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới 1950 đã khai thông con đường biên giới giữa nước ta với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Sau chiến thắng Biên giới thu – đông 1950, lần lượt Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ta đã thoát khỏi tình trạng cô lập, đồng thời nhận được sự ủng hộ của phe xã hội chủ nghĩa, cuộc kháng chiến được tăng cường thêm một nguồn lực mới rất quan trọng…
Là bước đi quan trọng thực hiện đường lối kháng chiến được đề ra từ những ngày đầu là “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế”.
Quân đội ta trưởng thành và giành được thế chủ động trên chiến trường chính là Bắc Bộ (cũng có nhiều tài liệu ghi là Bắc Đông Dương), tạo thêm bước đà cho những thắng lợi về sau.
Sau chiến dịch Biên giới, thế chủ động trên chiến trường chính được quân ta tiếp tục giữ vững qua các chiến dịch quân sự từ cuối 1950 đến xuân hè 1953.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đảng ta chủ trương tiến hành kháng chiến qua 3 giai đoạn: cầm cự, phòng ngự và tổng phản công.
Chiến thắng Biên giới, ta chuyển sang bước phản công. Từ đó, mở ra giai đoạn mới của cuộc kháng chiến.
Câu 6: (3,0 điểm)Những sự kiện nào đã mở ra bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975)? Phân tích làm rõ tính chất bước ngoặt của những sự kiện đó?
Những sự kiện nào đã mở ra bước ngoặt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 – 1975):
– Thắng lợi quân sự:
+ Phong trào Đồng khởi (1959 – 1960): thắng lợi của phong trào đã chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; chuyển từ đấu tranh chính trị là chủ yếu sang đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang trực diện với kẻ thù; mở ra thời kỳ khủng hoảng của chế độ Sài Gòn; đánh dấu sự thất bại của chiến lược “Chiến tranh đơn phương”,…
+ Chiến dịch đông – xuân 1964 – 1965 với chiến thắng Bình Giã và Chiến dịch xuân – hè 1965 với các chiến thắng An Lão (Bình Định), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài (Bình Phước): là những chiến dịch có quy mô lớn, cho thấy sự trưởng thành của lực lượng vũ trang; làm cho từng đơn vị lớn của địch bị tiêu diệt, bị thiệt hại nặng; quân đội Sài Gòn đứng trước nguy cơ tan rã; buộc Mỹ trực tiếp đưa quân đội Mỹ vào tham chiến trong Chiến tranh cục bộ.
+ Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: ta đã tiến công và nổi dậy ở 37 trong tổng số 44 tỉnh ở miền Nam, 4 trong 6 đô thị lớn; đã giành thắng lợi to lớn khi loại khỏi vòng chiến đấu của hàng chục nghìn tên địch, phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của chúng; làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ; là thắng lợi quân sự quyết định làm thất bại Chiến tranh cục bộ; Mỹ phải chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc, chấp nhận đi đến đàm phán với ta tại bàn hội nghị Paris.
+ Cuộc tiến công chiến lược Xuân Hè 1972: quân dân ta đã tiến công vào 3 tuyến phòng thủ trọng yếu của địch tại Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu của hàng chục vạn tên địch, gây thiệt hại lớn về vật chất cho chúng… Là thắng lợi quân sự quyết định làm thất bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, góp phần buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris.
+ Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” (12/1972): quân và dân miền Bắc đánh thắng cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng… (18 đến ngày 29) ; đã bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc B52, 5 chiếc F111, bắt sống 43 phi công… Là thắng lợi quân sự quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris.
– Thắng lợi ngoại giao:
+ Bắt đầu đàm phán với Mỹ tại Hội nghị Paris: tháng 5/1968 bắt đầu đàm phán 2 bên, đến tháng 1/1969 bắt đầu đàm phán 4 bên. Ta đã đấu tranh quyết liệt, mũi nhọn đấu tranh của ta là tập trung vào hai vấn đề mấu chốt là : đòi quân Mỹ và quân Đồng minh rút khỏi miền Nam Việt Nam; tôn trọng quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam cũng như tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam.
+ Ký kết Hiệp định Paris: là một thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam; Với Hiệp định Paris, Mỹ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta; cam kết rút quân đội nước mình và quân Đồng minh ra khỏi nước ta, thay đổi so sánh lực lượng thay đổi mau lẹ hoàn toàn có lợi cho ta; Sau Hiệp định Paris, chính quyền Sài Gòn suy yếu và mất chỗ dựa, chúng ngày càng yếu về vật chất và suy sụp về chính trị, tinh thần; ta thực hiện một bước quan trọng nhiệm vụ là “Đánh cho Mỹ cút”; Vấn đề lúc này là ta phải nhanh chóng chớp lấy thời cơ để tiến lên lật đổ chính quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam.
Câu 7: (2 điểm)“Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển của cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.
Bằng kiến thức lịch sử chọn lọc hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Sau Đại thắng mùa xuân 1975, Tổ quốc Việt Nam về mặt lãnh thổ đã thống nhất nhưng về mặt nhà nước vẫn chưa thống nhất khi hai miền vẫn tồn tại hai hình thức nhà nước khác nhau. Thực tế trên trái với nguyện vọng và tình cảm thiêng liêng của nhân dân hai miền Bắc – Nam… Đảng ta đã đề ra nhiệm vụ thống nhất đất nước về mặt Nhà nước. Nghị quyết của Đảng nêu rõ: “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển của cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.
Tháng 11/1975, Hội nghị Hiệp thương chính trị thống nhất đất nước được tổ chức tại Sài Gòn; 4/1976, cuộc Tổng tuyển cử đã diễn ra trong cả nước. Hơn 23 triệu cử tri (chiếm hơn 98% tổng số cử tri cả nước) đã đi bỏ phiếu và bầu ra 492 đại biểu.
Từ 24/6 – 3/7/1976, Quốc hội khóa VI, họp kỳ đầu tiên tại Hà Nội. Kỳ họp đã quyết định tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (bắt đầu từ ngày 2/7/1976), Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng, Quốc ca là bài Tiến quân ca, Thủ đô là Hà Nội, thành phố Sài Gòn – Gia Định đổi tên là Thành phố Hồ Chí Minh…Từ đây, việc hoàn thành thống nhất trên tất cả các mặt sẽ gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong phạm vi cả nước; tạo nên những tiền đề chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn diện đất nước, những điều kiện thuận lợi để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, những khả năng to lớn để bảo vệ Tổ quốc và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới…
Cũng như trong năm 1946 khi có chủ trương tổng tuyển cử, nhân dân cả nước đã hăng hái tham gia bỏ phiếu bầu Quốc hội thì lần này, khi có chủ trương thống nhất đất nước về mặt Nhà nước thì nhân dân cả nước từ Bắc đến Nam đã thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm, ý chí, khát vọng thống nhất nước nhà, đã tham gia bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa mới. Tinh thần ấy thể hiện ở việc có đến hơn 23 triệu cử tri, chiếm hơn 98% tổng số cử tri cả nước đã đi bỏ phiếu.
Như vậy, từ việc cử tri cả nước tham gia bầu cử, cho đến những quyết định đúng đắn, sáng suốt của Quốc hội khóa VI đã thể hiện rõ “Thống nhất đất nước vừa là nguyện vọng tha thiết bậc nhất của nhân dân cả nước, vừa là quy luật khách quan của sự phát triển của cách mạng Việt Nam, của lịch sử dân tộc Việt Nam”.
Nguyễn Duy Khánh