Đề tuyển chọn học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử tp Hà Nội.
Đề tuyển chọn học sinh giỏi Quốc gia môn Lịch sử tp Hà Nội.
Đáp án
Câu I.– Những biểu hiện cho thấy xu hướng về châu Á ngày càng đậm nét trong chính sách ngoại giao của Nhật Bản từ năm 1973 đến nay:+ Từ năm 1973 đến năm 1991, với tiềm lực kinh tế – tài chính ngày càng lớn mạnh, Nhật Bản bắt đầu đưa ra chính sách đối ngoại mới, điểm nổi bật của chính sách này là sự “trở về châu Á” của Nhật Bản với việc đề ra học thuyết Phucưđa (1977) và được Thủ tướng Kaiphu tiếp tục phát triển trong tình hình mới thành học thuyết Kaiphu vào năm 1991. Nội dung cơ bản của các học thuyết này là tăng cường quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội với các nước Đông Nam Á và tổ chức ASEAN.+ Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam và bình thường hóa mối quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Tháng 8-1977, Thủ tướng Nhật Phucưđa đi thăm một loạt nước Đông Nam Á nhằm tìm lại vị trí của nước Nhật ở nơi đây.+Từ năm 1991, bên cạnh việc tiếp tục liên minh chặc chẽ với Mĩ, Nhật Bản đề ra các Học thuyết Miyadaoa (1993) và Hasimôtô (1997) với nội dung tiếp tục coi trọng quan hệ với các nước Tây Âu, mở rộng hoạt động đối ngoại với các đối tac trên phạm vi toàn cầu và chú trọng phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á.+Bằng những thay đổi lớn trong đường lối đối ngoại của mình, đặc biệt là sự “trở về” Châu Á của Nhật Bản đã cho thấy quốc gia này nỗ lực vươn lên thành một cường quốc chính trị để tương xứng với vị thế siêu cường kinh tế.–Dẫn chứng về sự hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam:+Năm 1973, Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, mở đầu cho thời kỳ hợp tác hữu nghị của hai nước. Từ đó đến nay quan hệ hợp tác giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ và đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục…+ Về chính trị, đã có nhiều chuyến thăm giữa nguyên thủ và quan chức cấp cao giữa hai nước. Gần đây nhất là tháng 3/2017, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản sáng thăm Việt Nam. Nhật Bản hiện đang là đối tác chiến lược của Việt Nam.+ Về kinh tế: Nhật Bản là nhà đầu tư, đối tác thương mại hàng đầu và là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam. Việt Nam cũng là nơi cung cấp nguồn lao động nước ngoài lớn cho Nhật Bản.+ Về văn hóa-giáo dục: hai nước thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa; đồng thời cũng trao đổi sinh viên, có nhiều du học sinh Việt Nam ở Nhật và nhiều du học sinh của Nhật sang học tập tại Việt Nam.+ Hai nước còn hợp tác với nhau trên các diễn đàn quốc tế như Liên hợp quốc, Diễn đàn kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (AFEC)…
Câu II.- Nhận định“Chiến tranh lạnh đã trở thành nhân tố chủ yếu chi phối các quan hệ quốc tế trong hơn bốn thập kỉ nữa sau thế kỉ XX”là nhận định hoàn toàn chính xác.– Điều đó được biểu hiện ở những điểm sau:+ Thứ nhất, dưới tác động của Chiến tranh lạnh, thế giới bị chia thành hai phe, hai cực. Việc Mỹ thực hiện kế hoạch Mác-san (1947) và thành lập Tổ chứcHiệp ước Bắc Đại Tây Dương (1949) cùng nhiều khối liên minh quân sự khác ở Đông Nam Á, châu Mỹ, Trung Đông đã hình thành nên khối liên minh của các nước tư bản chủ nghĩa nhằm chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Để đối phó lại, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) năm 1949 và Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va năm 1955. Vì vậy có thể thấy, trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, thế giới đã bị chia thành hai phe là tư bản chủ nghĩa do Mỹ chi phối và phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu. Còn Trung Quốc (thành lập nước CHND Trung Hoa năm 1949) thì có thời kỳ theo phe Liên xô, có thời kỳ theo phe Mỹ, cũng có khi chống cả Liên Xô lẫn Mỹ. Do đó, những quyết định trong chính sách đối ngoại của Mĩ và Liên Xô đều tác động đến tình hình các nước ở hai phe, hai cực, không một quốc gia nào có thể đứng hoàn toàn ra ngoài cuộc chiến tranh này và không ít hay nhiều phụ thuộc vào cuộc chiến tranh này.+ Thứ hai, Chiến tranh lạnh đã dẫn đến tình trạng đối đầu căng thẳng và chiến tranh cục bộ giữa các quốc gia. Chiến tranh lạnh diễn ra trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị, quận sự đến văn hóa, tư tưởng. Đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, cuộc chạy đua vũ trang giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô đã đặt nhân loại đứng trước nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới. Tuy không nổ ra cuộc chiến tranh thế giới mới nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ và xung đột quân sự khu vực ở nhiều nơi trên thế giới như ở châu Âu, Bán đảo Triều Tiên, Bán đảo Đông Dương, khu vực Trung Đông, vùng biển Caribe. Những cuộc xung đột khu vực đó cho đến nay vẫn còn tiếp diễn do “di chứng” của Chiến tranh lạnh như ở Apganixtap và khu vực Trung Đông.+ Thứ ba, chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo mở ra thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế.Xu thế hòa hoãn Đông – Tây từ những năm 1970 đã giảm bớt tình trạng đối đầu căng thẳng giữa hai phe, hai cực và đến năm 1989 thì Mỹ và Liên Xô cùng tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh. Việc tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh đã đưa thế giới vào thời kì hòa dịu và đã đưa đến những chuyển biến quan trọng trong quan hệ quốc tế và cục diện chính trị thế giới. Nó mở ra xu hướng giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình và sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác và phát triển.
Câu III.– Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái đầu năm 1930 đã khẳng định khuynh hướng vô sản đã hoàn toàn thắng thế trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.- Khuynh hướng vô sản được lịch sử và nhân dân Việt Nam lựa chọn vì:+ Khuynh hướng vô sản là khuynh hướng tiến bộ và phù hợp với xu thế thời đại.Chủ nghĩa tư bản chuyển hẳn sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Mâu thuẫn trong lòng nó phát triển gay gắt: mâu thuẫn giữa đế quốc với đế quốc dẫn đến chiến tranh đế quốc, tiêu biểu là Chiến tranh thế giới thứ nhất; mâu thuẫn giữa đế quốc với thuộc địa dẫn tới sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc; mâu thuẫn giữa tư sản với vô sản dẫn tới sự phát triển của phong trào công nhân và cách mạng xã hội. Năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, mở ra trước mắt các dân tộc bị áp bức thời đại “cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”. Chủ nghĩa Mác – Lê-nin trở thành hiện thực và được truyền bá rộng rãi khắp nơi dẫn tới sự ra đời của các đảng cộng sản ở nhiều nước trên thế giới. Quốc tế Cộng sản được thành lập (2/3/1919). Đại hội II của Quốc tế Cộng sản (1920) thông qua Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, chỉ ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức.+ Cách mạng Việt Nam đặt ra yêu cầu tìm ra con đường cứu nước mới và giai cấp lãnh đạo đúng đắn.Thực dân Pháp xâm lược và thống trị Việt Nam. Đất nước mất độc lập, nhân dân ta mất tự do. Độc lập, tự do là khát khao cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước. Phát huy truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, các phong trào yêu nước chống Pháp của nhân dân Việt Nam diễn ra liên tục và anh dũng theo những con đường khác nhau nhưng đều bị thực dân Pháp dập tắt. Thất bại của Phong trào Cần vương cuối thế kỉ XIX khẳng định con đường cứu nước theo ngọn cờ phong kiến là không thành công, do đó độc lập tự do không thể gắn liền với chủ nghĩa phong kiến. Thất bại của phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX khẳng định con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản là không thành công, độc lập tự do không gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng “dường như trong đêm tối không có đường ra”, đặt ra yêu cầu bức thiết phải tìm con đường cứu nước mới.+ Thứ ba, trí tuệ và nhãn quan chính trị của Nguyễn Ái Quốc trong việc tìm ra con đường cứu nước và truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản vào Việt Nam.Năm 1920, bằng nhãn quan chính trị đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, con đường cách mạng vô sản. Từ đó, Người xây dựng nên lí luận giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản và truyền bá vào Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là nhà hoạt động cách mạng sáng tạo. Người đến với chủ nghĩa Mác Lênin, tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam mà luôn vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc có nhiều sáng tạo trong quá trình chuẩn bị và thành lập Đảng, vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mang Việt Nam. Những sáng tạo trên có ý nghĩa hết sức to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Nhờ những sáng tạo đó mà chủ nghĩa Mác Lê nin xâm nhập vào Việt Nam, được nhân dân Việt Nam đón nhận, trở thành ngọn cờ,hệ tư tưởng cho cách mang Việt Nam, giúp cách mang Việt Nam giải quyết những vấn đề cụ thể, phù hợp với yêu cầu lịch sử Việt Nam đặt ra. Nhờ những sáng tạo đó mà Đảng ta mới có thể dẫn dắt được cách mang Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trong thế kỉ XX.
Câu IV.Những sự kiện thế giới tác động đến cách mạng Việt Nam trong thời kì 1930-1945:- Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933:+ Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 bắt đầu ở Mỹ và nhanh chóng lan ra toàn bộ thế giới tư bản, trong đó có Pháp. Là thuộc địa quan trọng của thực dân Pháp, kinh tế – xã hội Việt Nam phải gánh chịu những hậu quả nặng nề, tình trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động ngày càng trở nên trầm trọng. Thêm vào đó là việc thực dân Pháp tiến hành “khủng bố trắng” sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930) đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng thêm sâu sắc.+ Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng 10/1930 là Đảng Cộng sản Đông Dương) đã phát động và lãnh đạo một phong trào đấu tranh quần chúng công – nông rộng khắp cả nước trong những năm 1930 -1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh.+ Phong trào cách mạng 1930-1931 bước đầu tạo ra trận địa và lực lượng cách mạng. Đó là bước thắng lợi đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến tiến trình phát triển về sau của cách mạng Việt Nam và là cuộc tập dượt thứ nhất chuẩn bị cho Cách mạng tháng Tám về sau.- Sự ra đời của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới:+ Để thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, từ đầu những năm 1930, một số nước như Đức, Italia và Nhật Bản đã đi theo con đường phát xít hóa đất nước, âm mưu gây chiến tranh chia lại thế giới. Trước tình hình đó, tháng 7/1935, Quốc tế cộng sản đã tiến hành Đại hội lần thứ VII tại Matxcơva (Liên Xô) đề ra chủ trương đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh thế giới, đòi tự do, cơm áo, hòa bình, thành lập trận nhân dân ở các nước.+ Tháng 6/1936, Chính phủ Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới đã cho thi hành một số chính sách tiến bộ ở thuộc địa. Đối với Đông Dương, Chính phủ Pháp cử phải viên sang điều tra tình hình, cử Toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật bầu cử vào Viện Dân biểu, ân xá một số tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí… Mặt khác, do thực dân Pháp tăng cường vơ vét thuộc địa để bù đắp cho cuộc khủng hoảng kinh tế nên đời sống đa số nhân dân ngày càng khó khăn, khổ cực, tinh thần cách mạng dâng cao.+ Tận dụng cơ hội đó, tháng 7/1936 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp hội nghị và thay đổi chủ trương, phát động nhân dân đứng lên đấu tranh đòi tự do, cơm áo, hòa bình.+ Dưới sự lãnh đạo của Đảng, một phong trào cách mạng quần chúng với hình thức đấu tranh dân chủ công khai và nửa hợp pháp đã diễn ra mạnh mẽ trong những năm 1936 – 1939. Phong trào Dân chủ 1936-1939 là một cuộc tập dượt, chuẩn bị lực lượng cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.- Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945):+ Đầu tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quận đội phát xít Đức kéo vào nước Pháp. Chính phủ Pháp đầu hàng Đức và thực hiện chính sách thù địch với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng các nước thuộc địa. Tháng 6/1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô, trên thế giới hình thành hai trận tuyến là lực lượng phát xít Đức, Itlalia, Nhật Bản và lực lượng dân chủ cho Liên Xô đứng đầu.+ Ở Đông Dương, tháng 9/1940 quân Nhật vượt biên giới Việt – Trung kéo vào miền Bắc Việt Nam. Thực dân Pháp ở Đông Dương nhanh chóng đầu hàng và cấu kết với phát xít Nhật tăng cường bóc lột nhân dân Đông Dương. Chính sách thống trị của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta đến chỗ cùng cực, hậu quả là cuối năm 1944 – đầu năm 1945 có gần 2 triệu đồng bào ta chết đói. Trước tình hình đó, đầu năm 1941 Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị Trung ương 8 (5/1941) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc đã hoàn chỉnh chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra từ Hội nghị Trung ương tháng 11/1939, tập trung chuẩn bị lực lượng cho cuộc khởi nghĩa giành vũ trang chính quyền.+ Bước sang năm 1945, phát xít Đức bị thất bại nặng nề ở châu Âu, ở mặt trận Châu Á – Thái Bình Dương, quân Nhật thua to ở nhiều nơi. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn Đông Dương, tạo nên cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc. Trước tình hình đó, Đảng ta đã phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa trong cả nước.+ Đến tháng 8/1945 chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Ngày 8/8/1945 Liên Xô tuyên chiến và tấn công đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 6 và ngày 9/8/1945 Mỹ ném bom nguyên tử hủy diệt 2 thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki của Nhật Bản. Ngày 15/8/1945 Nhật Bản chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện.+ Chớp “thời cơ ngàn năm có một”, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng Tám thành công đã đập tan xiềng xích thống trị của đế quốc và phong kiến dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một chiến công vĩ đại không phải chỉ của riêng dân tộc Việt Nam mà là thắng lợi của các dân tộc nhược tiểu Á, Phi, Mỹ-la-tinh đang kiên cường chống chủ nghĩa thực dân vì nền độc lập dân tộc và là một đòn tấn công trực diện vào hệ thống nô dịch của chủ nghĩa thực dân cũ.
Câu V.– Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương vì:+ Kế hoạch quân sự Nava bước đầu bị phá sản. Yêu cầu điều chỉnh kế hoạch của Pháp – Mĩ là tất yếu xảy ra.+ Điện Biên Phủ có vị trí cực kì quan trọng. Nếu giữ được hoặc mất vị trí này sẽ có khả năng thắng hoặc thua trong toàn bộ cuộc kháng chiến. Ngay khi bộ đội ta tiến công lên Tây Bắc, Nava vội vã đưa 6 tiểu đoàn cơ động Tây Bắc để giữ Điện Biên Phủ. Nava quyết tâm giữ vững căn cứ này bằng mọi giá. Càng ngày số lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ càng tăng lên. Thực dân Pháp muốn biến Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương nhằm giăng một cái bẫy giữa rừng núi Tây Bắc hiểm trở để thu hút chủ lực Việt Minh tới đó để tiêu diệt.+ Pháp – Mĩ cho rằng quân dân Việt Nam không có khả năng tấn công lên Điện Biên do địa bàn rừng núi hiểm trở và vận chuyển tiếp tế khó khăn. Trong đánh giá của người Pháp, bộ đội chủ lực Việt Minh không có khả năng đánh quân Pháp ở Điện Biên bởi vì chiến trường rừng núi hiểm trở, tuy về mặt địa hình thuận lợi cho tác chiến lớn cho Việt Minh nhưng rất xa hậu phương. Nếu như tiến hành một chiến dịch công kiên, dài ngày trong chiến trường rừng núi xã xôi cách trở như vậy thì không thể đảm bảo cung cấp được về mặt tiếp tế. Bởi vậy, người Pháp cũng như người Mĩ đã quyết tâm xây dựng Điện Biên Phủ nhằm thu hút quân chủ lực Việt Minh đến để tiêu diệt.- Điều kiện để Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ là:+ Vị trí chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ và vùng Tây Bắc Việt Nam. Việc chiếm được Điện Biên Phủ sẽ tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào…+ Cuộc kháng chiến của của quân đội và nhân dân Việt Nam giành nhiều thắng lợi và có nhiều thuận lợi: cuộc kháng chiến toàn diện của ta đến đầu 1954 đã phát triển mạnh về mọi mặt chính quyền dân chủ nhân dân không ngừng được củng cố, nền kinh tế đạt những thành tựu to lớn; bộ đội ta không ngừng trưởng thành cả về số lượng và kỹ thuật tác chiến; hậu phương ta vững mạnh có thể khắc phục được những khó khăn về tiếp tế, vận tải; cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta được sự đồng tình, ủng hộ của lực lượng hòa bình thế giới, ngay cả nhân dân Pháp đặc biệt là sự giúp đỡ của Trung Quốc và Liên Xô. Chúng ta có điều kiện khắc phục khó khăn trong việc mở chiến dịch Điện Biên Phủ nhưng Pháp – Mĩ không thấy được khả năng của quân dân Việt Nam.+ Trên cơ sở phân tích âm mưu nguy hiểm của Pháp – Mĩ trong việc chiếm đóng Điện Biên Phủ, ta thấy bên cạnh mặt mạnh của Pháp là thực dân Pháp tập trung ở Điện Biên Phủ tập trung đông mạnh, âm mưu của Pháp – Mĩ ở đây hết sức nguy hiểm nhưng địch có những chỗ yếu cơ bản: Điện Biên Phủ là nơi quân Pháp chỉ có tiếp tế duy nhất bằng đường không và là sản phẩm của thế thua, là sản phẩm của thế yếu. Chính vì vậy, ta có thể khoét sâu vào chỗ yếu của địch để giành thắng lợi.+ Trên cơ sở phân tích toàn diện, tháng 12/1953, Bộ Chính trị đã quyết định tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Việc thay đổi phương châm tiến công chiến lược trong đông – xuân 1953-1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ thể hiện sự quán triệt phương châm chiến lược tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt và chắc thắng.+ Như vậy, Điện Biên Phủ vốn không có trong kế hoạch quân sự Nava và cũng không có trong kế hoạch tác chiến đông – xuân 1953-1954 của phía Việt Nam được đề ra tại Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9/1953 nhưng mà cuối cùng nó lại trở thành điểm hẹn lịch sử, trở thành nơi diễn tiến công chiến lược của quân đội và nhân dân Việt Nam, nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược để kết thúc cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã kéo dài từ tháng 12/1946 trên phạm vi cả nước.
Câu VI.– Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương được ký kết, Mỹ liền thay thế Pháp, dựng nên chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam, thực hiện âm mưu chia cắt nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông Nam Á. Thực chất đây là chiến lược “Chiến tranh đơn phương” của Mỹ hòng dựa vào bộ máy chính quyền Ngô Đình Diệm ở miền Nam để thống trị nhân dân ta.- Phong trào Đồng khởi (1959 – 1960) của nhân dân miền Nam đã làm phá sản chiến lược “Chiến tranh đơn phương”, Mỹ liền chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961-1965) với âm mưu “dùng người Việt đánh người Việt”. “Chiến tranh đặc biệt” được tiến hành bằng quân đội tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta với bộ xương sống là các “ấp chiến lược” ở miền Nam.- Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ càng đẩy mạnh, mở rộng chiến tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ở miền Nam, Mỹ tiến hành chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968) với âm mưu giành lại thế chủ động trên chiến trường với các chiến dịch “tìm diệt”, hơn nửa triệu quân Mỹ cùng quân các nước chư hầu ồ ạt kéo vào nước ta. Ở miền Bắc, từ cuối năm 1964 Mỹ đã tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân.- Từ năm 1969, tuy bị sa lầy trong “Chiến tranh cục bộ”, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh ở Việt Nam, với chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” ở miền Nam, ném bom phá hoại miền Bắc lần thứ hai, đồng thời mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với chiến lược “Đông Dương hóa chiến tranh”. Âm mưu của Mĩ là tận dụng xương máu của người Việt thay cho quân Mĩ rút dần về nước, thực hiện “dùng người Việt đánh người Việt”, “dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. Mỹ tận dụng triệt để lực lượng quân đội Sài Gòn để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam và ở Lào, Campuchia. Đồng thời, sử dụng biện pháp ngoại giao để ngăn cản sự ủng hộ của Liên Xô, Trung Quôc và các nước xã hội chủ nghĩa cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Nhưng quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari 1973 rút quân về nước, và đã đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ bằng thắng lợi trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975. – Trong các chiến lược chiến tranh, chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968) thể hiện sức mạnh quân sự cao nhất của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Vì đây là lúc lực lượng quân Mỹ và quân Đồng Minh ở trạng thái đông và mạnh nhất ở miền Nam, chỉ tính số quân viễn chinh Mỹ là 50 vạn, đây là số quân không hề nhỏ của một quốc gia kinh tế phát triển, khoa học – kỹ thuật hiện đại bậc nhất thế giới lúc bấy giờ. Thời gian này là thời gian vai trò quân Mỹ trên chiến trường thể hiện rõ nhất, nếu trước hoặc sau chiến lược này thì lực lượng chủ yếu trên chiến trường là quân đội Sài Gòn thì thời gian này lực lượng chủ yếu trên chiến trường là quân viễn chinh Mỹ và các đồng Minh của Mỹ.
Câu VII.– Sau khi đất nước thống nhất đất nước năm 1975, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã bắt tay vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cả nước.- Trong thời gian thực hiện hai kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976-1985), chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực đời sống xã hội, song cũng gặp không ít khó khăn thách thức:+ Do mắc phải những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về đường lối, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng, trước hết là khủng hoảng kinh tế – xã hội. Hậu quả là dẫn đến tình trạng khan hiếm lương thực, đời sống nhân dân khó khăn, giảm sút lòng tin ở chính quyền.+ Các thế lực phản động trong nước ra sức tuyên truyền chống phá cách mạng. Chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ và tình trạng căng thẳng với Trung Quốc từ năm 1979 làm ảnh hưởng chung đến hoạt động ngoại giao của đất nước ta.- Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng và đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên, Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.- Những thay đổi của tình hình thế giới và quan hệ giữa các nước do tác động của cách mạng khoa học – kỹ thuật trở thành xu thế thế giới; cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác cũng đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải tiến hành đổi mới.- Vì vậy, đổi mới là vấn đề cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời là vấn đề phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Huỳnh Thanh Mộng –Trần Hoài Thương